Câu chuyện về một số nguyên liệu hương rất phong phú với những diễn biến và “plot twist” bất ngờ đến nỗi chúng có thể là câu chuyện nền cho một cuốn tiểu thuyết. Nó sẽ là một câu chuyện trinh thám, đôi khi - một bộ phim hài. Và câu chuyện hôm nay chắc chắn là tiểu sử!
 
Quinoline

Quinoline (nguyên liệu có mùi hương khá mạnh) được tách ra từ nhựa than đá, và được nhà hóa học người Đức Friedlieb Ferdinand Runge phân tích lần đầu tiên vào năm 1834. Ông gọi nguyên liệu tìm thấy là leycol (tiếng Hy Lạp; λευκό ελαίου - "white oil” - dầu trắng). Năm 1842, nhà khoa học người Pháp Charles Frédéric Gerhardt, khi đun nóng quinia và strychnine với potassium hydroxide, thu được một nguyên liệu và gọi nó là quinoline. Sau đó, August Wilhelm von Hofmann (người Đức) đã chỉ ra rằng leycol và quinoline là cùng thực thể phân tử (the same molecular enity).

Quá trình tổng hợp quinoline trong công nghiệp được đưa ra vào năm 1880 bởi nhà hóa học người Séc Zdenko Hans Skraup. Phản ứng hóa học được đặt theo tên ông; phản ứng bao gồm sự đun nóng anilin, axit sunfuric, glixerin và một chất oxy hóa (ví dụ nitrobenzen). Nhu cầu của Quinoline trở nên nhiều, ví dụ nó được dùng như một dung môi có độ sôi cao (ví dụ, nó hòa tan dễ dàng với lưu huỳnh), hoặc để sản xuất sơn và thuốc (một số chất anitisers như: enteroseptolum, aminochinolum, trichomonacidum, chinocidum).

Quinoline tinh khiết, như đã đề cập ở trên, có mùi khá gắt. Khi pha loãng, nó có mùi tanh và hơi đất, với một số sắc thái của cao su, da và thuốc lá (thậm chí cả coumarine). Các quinolines được thay thế các nhóm alkyl cũng có mùi khá mạnh, chính điều này khiến một số trong số chúng thu hút sự chú ý của nhiều perfumer.

De Laire

Năm 1895, Edgar De Laire thành lập nhà máy sản xuất hương liệu tổng hợp. Bên cạnh các nguyên liệu thơm thuần túy, nhà máy bắt đầu cung cấp sự kết hợp của các nguyên liệu - được gọi là "phức hương" (perfume base). Chúng được tạo ra vì trên thực tế nhiều hương liệu tổng hợp có mùi hương rất mạnh và khác thường và một số perfumer không biết xử lý chúng như thế nào (thực tế thì, vào cuối thế kỷ XIX, ngành công nghiệp nước hoa sử dụng chủ yếu là tự nhiên, với hương thơm dịu và dễ chịu).

Công bằng mà nói, chúng ta nên đề cập rằng "phức hương" (perfume base) được tạo ra không chỉ để tạo sự thoải mái mà còn để "ngụy trang" cho các chất tổng hợp mới và tránh việc nhận dạng và sao chép chúng. Ngay cả ngày nay, một số cá thể thu được chỉ có thể dùng làm "phức hương", ví dụ như Neocaspirene có mùi blackcurrant (quả lý chua đen) hiện tại chỉ có sẵn dưới dạng Dewfruit base, và sea-ozonic Azuril là Ultrazur (chúng là các sản phẩm của Givaudan). Cho đến gần đây Amber Xtreme, một nguyên liệu của IFF, chỉ tồn tại như một phần của Cashmeran Velvet base.

Vì vậy, để thể hiện Isobutyl quinoline (một trong những dẫn xuất của quinoline) một cách tốt nhất, vợ của Edgar De Laire, Marie-Thérèse de Laire, đã tạo ra huyền thoại Mousse de Saxe base, thường được mô tả là "mùi nơi ở của hổ". Để làm dịu mùi isobutyl quinoline mạnh và sắc(nó có mùi đất, với một nốt xanh đặc trưng, rất đặc trưng và các sắc thái của cỏ vetiver, rêu sồi, cỏ khô, da thuộc và các loại hạt), cô ấy đã sử dụng rất nhiều phong lữ (geranium) (cũng là 1 base, được tạo ra xung quanh tinh dầu thiên nhiên phong lữ), hoa hồng, vanillin, ionones tím, gỗ đàn hương, anisyl acetate dạng bột (hoặc anisic aldehyde) và xạ hương.

Mousse de Saxe rất nổi tiếng - nhờ vào những mảng mùi hương tương phản  rêu-gỗ, phấn - ngọt, xanh-da thuộc đã tạo ra tầng hương cuối tuyệt đẹp cho những mùi hương thuộc họ chypre (nhân tiện, một số người nói rằng isobutyl quinoline đã được sử dụng lần đầu tiên trong nước hoa 100 năm trước , ở Coty Chypre (1917), lần khác là Caron Tabac Blond được đề cập đến (1919), nhưng thường ánh hào quang là của người tiên phong là do Caron Nuit de Noël (1922)). Cơ sở này có thể được tìm thấy trong nhiều loại nước hoa chypre của thế kỷ trước.)

Mousse de Saxe

Isobutyl quinoline thường được sử dụng trong các hợp hương (accord) da thuộc. Khía cạnh hơi hướng Vetiver - thuốc lá của nó hoạt động tốt trong các hương "da thuộc" khác nhau, ngoài ra nó còn có một số hiệu ứng theo hướng animalic (nó đặc biệt đi tốt với castoreum) và hiệu ứng của yên da.

Da thuộc - một chủ đề nước hoa khá khó; thậm chí ngày nay nhiều người không thích làm lại từ đầu, mà thay vào đó họ sử dụng base làm sẵn (may mắn thay, các loại base da thuộc rất tốt được cung cấp bởi nhiều công ty sản xuất hương liệu lớn). Đó là lý do tại sao một base khác của công ty De Laire có chứa Isobutyl quinoline - "Cuir de Russie" - cũng trở nên rất được săn lùng. Ví dụ, nó có thể được tìm thấy trong Knize Ten (1924).

Các tác phẩm chypre dựa trên Isobutyl quinoline trở nên khá phổ biến, trong đó Isobutyl quinoline nhấn mạnh khía cạnh rêu và mùi hương da thuộc, nhưng các loại nước hoa có Isobutyl quinoline, ví dụ như hương bưởi-vetiver, khá mới và hiếm. Tôi chắc chắn rằng nguyên liệu này vẫn chưa thể hiện hết tiềm năng của nó và câu chuyện về isobutyl quinoline vẫn còn tiếp tục.


Bài viết được team Olfactozoom lược dịch, bổ sung và chỉnh sửa thông tin từ Fragrantica: 

https://www.fragrantica.com/news/Isobutyl-Quinoline-From-Coty-Chypre-to-Tom-Ford-Ombre-Leather-16-9248.html

*Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Copyright - Bản quyền trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog Olfactozoom.


Đọc thêm:

Note hương gạo trong nước hoa 

Làm thế nào để biết một mùi hương thuộc nhóm HOA?


Bài viết cũ hơn Bài viết mới hơn