A

Absolute /ˈæbsəluːt/: là phần nguyên liệu thiên nhiên thu được sau quá trình chiết xuất bằng dung môi và xử lý lại với cồn (để loại bỏ tạp chất rắn stearoptene) của các loại cây thơm : rễ, cây hay hoa,etc. Absolute thường cực kỳ đắt tiền do hiệu suất khá thấp. Một số nguyên liệu dưới dạng Absolute có thể kể đến : Absolute hoa Nhài, Absolute hoa Huệ, Absolute hoa Hồng, Absolute lá Violet, Absolute Ciste Labdanum,...

Rose Absolute. (Rose Absolute in our Box Rose accord)

Accord /əˈkɔːd/: Trong nước hoa, accord là sự kết hợp của 2 hay nhiều nguyên liệu khác nhau một cách cân bằng để tạo nên một hương thơm mới. Team tạm dịch Accord sang tiếng Việt là “Hợp Hương”, vì mỗi accord trong nước hoa cũng giống như những hợp âm hài hoà trong âm nhạc.

B

Balenciaga: Parfums Balenciaga được thành lập bởi nhà tạo mẫu Cristobal Balenciaga (1895-1972), Paris gốc Tây Ban Nha. Chai nước hoa đầu tiên của hãng, 'Le Dix', được ra đời vào năm 1947, một hương chypre được chế tạo bởi Francis Fabron.

Balsamic note /bɔːlˌsæmɪk nəʊt/: Một thuật ngữ được dùng trong nước hoa để diễn tả nốt hương ngọt ngào, mềm mại, ấm áp của loại nhựa thơm balsam. Bạn có thể ngửi mùi này ở Benjoin ( cánh kiến trắng), nhựa Tolu, và Peru. 

C

Calone: (tên thương mại là Calone 1951) là một hương tổng hợp được Pfizer điều chế thành công vào năm 1966. Calone có mùi của gió biển với chút note hương mineral và đối với một số người, nó còn có mùi giống những con Hàu. Calone được dùng lần đầu tiên trong nước hoa vào năm 1989, trong mùi hương New West for her Aramis, với hàm lượng 1.2%. Các bạn có thể ngửi nguyên liệu thơm nồng mùi biển này trong Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box A.

Cis-3-hexanol: là một nốt hương ‘xanh' được sử dụng phổ biến trong nước hoa, trong hợp hương nhài, muguet, gardénia,... Các bạn có thể ngửi nguyên liệu xanh, thơm mùi cỏ mới cắt này trong Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box A.

D

Distillation (Hydro Distillation): Chưng cất hydro bằng nước là một trong những quy trình đơn giản nhất, lâu đời nhất để lấy tinh dầu từ thực vật. Nguyên liệu thô được đưa vào bình chưng cất, ngập trong nước. Hỗn hợp nguyên liệu thực vật và nước được đun sôi. Hơi nước mang các phân tử chất tạo mùi dễ bay hơi đến bình ngưng lạnh. Các phân tử hương, nhờ sự ngưng tụ mà chuyển trở lại thành chất lỏng, cho ra tinh dầu. Hydrodistillation được sử dụng để chiết xuất tinh dầu Turkish Rose (Rosa Damascena) và Neroli.

Steamdistillation (chưng cất bằng hơi nước): Trong chưng cất hơi nước, nguyên liệu thực vật được đưa vào buồng chưng cất hơi nước (tách biệt với nước, trong khi chưng cất bằng hydrodistillation, nguyên liệu thô được phủ ngập trong nước). Hơi nước được ép vào buồng. Nguyên tắc tương tự như chưng cất hydro, hơi nước giúp mang các phân tử dễ bay hơi của cây và đưa chúng đến dàn ngưng lạnh. Các phân tử này sẽ trở lại thành chất lỏng cho tinh dầu. Tinh dầu Bạch đàn và Rosemarry được thu bằng phương pháp này.

E

Enfleurage /Chiết xuất tinh dầu bằng chất béo lạnh/: Là một trong những kỹ thuật cổ xưa nhất để chiết xuất hương từ Hoa. Ưu điểm là nó cho phép lấy tinh chất thơm từ những loại hoa “nhạy cảm nhiệt” như hoa Huệ và Nhài. Nhược điểm là hiệu suất thấp, đắt tiền. Ngày nay, phương pháp Enfleurage được thực hiện trên quy mô lớn chỉ còn ở vùng Grasse của Pháp. Kỹ thuật này tận dụng khả năng hấp thụ cao của chất béo để trích xuất các phân tử hương từ hoa. Hoa được xếp lên lớp mỡ động vật. Những phân tử mùi được thấm vào mỡ. Lớp hoa này được thay từ 2,3 lần để lớp mỡ đó ngấm đầy hương hoa. Sau đó, mỡ sẽ được đem đi chiết xuất với dung môi hữu cơ, cho Absolute.

Expression /ɪkˈspreʃn/: Ép hay ép lạnh là cách chiết xuất sử dụng để lấy tinh dầu từ họ citrus (cam, chanh, bergamot). Dùng lực ép, là những mũi kim nhỏ, để trích xuất những phân tử hương từ những túi hương trên vỏ citrus.

F

Farnesol: Farnesol thường có mặt trong nhiều loại tinh dầu như : Huệ, Sả, Neroli, Lemongrass, Rose. Nó là chất lỏng không màu. Farnesol được tổng hợp để sử dụng trong việc tái tạo các mùi hương hoa.

Frankincense /ˈfræŋkɪnsens/: Còn được gọi là 'Olibanum' hoặc là 'Incense', được sử dụng trong nước hoa từ thời kì đầu cho đến cả nước hoa hiện đại. Đó là một loại nhựa thơm tiết ra từ thân và cành của một số loài cây nhỏ thuộc phân loại thực vật Boswellia, có mùi tươi, balsamic, khói và mùi da. Phương pháp chiết xuất là bằng chưng cất hoặc chiết bằng dung môi. Xuất hiện trong một số nước hoa như: Invictus Victory, Squid Zoologist.

G

Gardenia / ɡɑːˈdiːniə /: Cây Dành dành có nguồn gốc từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản nhưng được trồng ở nhiều nơi khác. Tuy nhiên, rất khó để chiết được được hoa Dành dành, chính vì vậy trong nước hoa, hương Dành dành được tái tạo bằng nhiều chất tổng hợp khác nhau. Hoa Gardenia có mùi hương gợi nhớ đến hoa nhài, hoa huệ, và đại hoàng xanh (có thể được tái tạo mùi bằng acétate styrallyle). Chúng ta có thể tìm thấy mùi Gardenia trong Gardenia Chanel, Jolie Madame, L'Air du Temps, và Ma Griffe.

Grapefruit oil /ˈɡreɪpfruːt ɔɪl/ : hoặc tinh chất ‘Pamplemousse’ trong tiếng Pháp. Tinh dầu Grapefruit thu được bằng phương pháp ép lạnh, dùng lực chiết xuất các phân tử hương từ vỏ của cây bưởi (Citrus paradisi). Nó có nguồn gốc từ Tây Ấn Độ nhưng hiện nay đã được trồng rộng rãi. Nước sản xuất tinh dầu grapefruit lớn nhất là Mỹ (Florida, California), theo sau là Israel và Argentina. Thời điểm thu hoạch: Mùa đông và mùa hè. Phân tử đặc trưng của Tinh chất grapefruit là Nootkatone, có mùi rất tươi mát, gỗ Vetiver. Nootkatone là phân tử yêu thích của Jean Claude Ellena. Ông đã sử dụng nó trong rất nhiều hương nước hoa của mìng, tiêu biểu là Terre d'Hermès. Tinh chất grapefruit mang lại sự tươi sáng, ngọt chua. Các hương có grapefruit: Aqua Allegoria Pamplelune (1999, Guerlain), Eau de Pamplemousse rose (2009, Hermès).

H

Hedione (Methyl Dihydrojasmonate): là một nguyên liệu thô tổng hợp có mùi hoa Nhài, hơi hướng cam quýt và đượm mùi hoa Hồi. Nó được giới thiệu đến công chúng lần đầu tiên bởi Firmenich vào năm 1960. Edmond Roudnitska là perfumer đầu tiên ứng dụng Hedione vào trong nước hoa, với Eau Sauvage Christian Dior, 1966. Hedione đóng vai trò nâng đỡ và làm sáng bừng cả mùi hương Citrus Chypre này. Các bạn có thể ngửi hương Hedione trong Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box A.

Honey /ˈhʌni/: Honey (hoặc Miel) trong nước hoa được chuyển đổi bằng cách sử dụng các nguyên liệu thô tổng hợp. Hương mật ong kết hợp rất tốt với hương trái cây và thuốc lá. Loại nguyên liệu này dễ dàng tìm thấy trong các loại nước hoa như: Chergui Serge Lutens (2005), A * Men Pure Havane (2011), Elie Saab Le Parfum (2011), Tom Ford Bitter Peach (2020), ... Còn loại nước hoa nào bạn thích có mùi mật ong không?

I

Ionone Beta: là một nguyên liệu thô tổng hợp. Nó có mùi của hoa violet, mùi của những loại trái cây màu đỏ và mùi gỗ. Nguyên liệu thô này được sử dụng rộng rãi trong mỹ phẩm, những sản phẩm về giặt ủi hoặc nước hoa. Một trong những loại nước hoa nổi tiếng có chứa Ionone beta là Eau parfumée au Thé vert Bvlgari (1992). Ngoài ra, bạn cũng có thể tìm mua loại nước hoa này tại Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box A.

Iso E Super: là một hương thơm tổng hợp vô cùng thú vị với hương tựa gỗ tuyết tùng, gỗ amber và hơi có chút khói. Perfumer Sophia Grojsman đã nhận xét rằng: “Nó kết hợp tốt với mọi thứ và bất cứ thứ gì bạn thêm vào nó”. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều người không thể ngửi thấy mùi hương của loại nguyên liệu này. Các loại nước hoa nổi tiếng có chứa Iso E Super như Molecule 01 Escentric Molecules, Bleu de Chanel, Encre Noire Lalique … Bạn có thể tìm thấy mùi hương thần kì này tại Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box A.

J

J'Adore (Dior): là một mùi hương hương floral fruity, được điều chế bởi Calice Becker (Givaudan), ra mắt vào năm 1999. Mùi hương này đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên hương hoa trái cây hay nhóm hương floral fruity. Nếu trong những mùi hương trước đó, người ta có thể dễ dàng gọi tên những note hương hoa: như hoa hồng, hoa nhài, hoa cẩm chướng khi ngửi một mùi hương, thì việc đó trở nên khó khăn hơn khi ta chạm mũi vào J’Adore. Hương hoa trong J'Adore rất khó để "xác định”!!!Những nốt hương hoa chồng chéo, đan xen lẫn nhau, thành một thực thể vô cùng hài hòa đến mức ta khó lòng xác định nó được cấu thành từ đâu. Hương trái cây trong J’Adore sáng lấp lánh với nhiều nốt hương trong trẻo, mọng nước; được bao bọc bởi đóa hoa “theo trường phái Ấn tượng” và xạ hương dịu nhẹ. Một mùi hương trường tồn theo thời gian, sau hơn 20 năm, vẫn nằm trong top 20 mùi hương bán chạy nhất của Châu Âu.

Jasmine /ˈdʒæzmɪn/: Có hơn 200 loài hoa nhài nhưng có 2 loài được sử dụng nhiều nhất trong lĩnh vực nước hoa là Jasminum grandiflorum và Jasminum sambac. Hoa nhài là một loài hoa rất mỏng manh, cần được thu hoạch vào sáng sớm và chiết vào cùng ngày, sử dụng chiết xuất bằng dung môi. Bạn biết không, cần đến 7 triệu bông hoa để có được 1 kí tinh dầu Absolute. Jasmine Absolute có màu xanh lá cây, hương trái cây, phong phú, gợi cảm và động vật. Vì sản lượng tinh dầu hoa nhài rất thấp nên chi phí cho nguyên liệu này rất cao. Jasmine Sambac được tìm thấy trong loại nước hoa như: J'Adore Dior (1999), Imperial Tea By Kilian (2014), Gucci Bloom (2017). Bạn có thể tìm thấy mùi hương thần kì này tại Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box B.

L

Lavender /ˈlævəndə(r)/: Lavender hay Lavande, có nguồn gốc từ từ lavare (tiếng Ý), có nghĩa là laver (tiếng Pháp) – giặt giũ, tẩy rửa. Thời cổ đại, người Romain đã dùng Lavender để làm thơm nước tắm và quần áo. Thời Phục hưng, những người thợ làm da thuộc đã biết dùng nó để làm giảm mùi da thuộc. Không lâu sau đó, Lavender xuất hiện như một thành phần không thể thiếu trong những chai nước thơm Colognes. Tùy theo phương pháp thu hoạch mà tinh dầu Lavender sẽ có mùi khác nhau. Nếu phơi nắng những bó Lavender đã gặt trong vòng 24h thì ta sẽ thu được tinh dầu có nhiều hương hoa, do những notes aromatic đã bay hơi trong quá trình phơi. Còn nếu chiết xuất ngay lập tức thì tinh dầu thu được sẽ rất tươi mát, xanh hơn và nhiều agrestic. Có hai cách chiết xuất có thể áp dụng cho hoa Lavender: Chiết xuất bằng hơi nước, cho Essential Oil Lavender. Chiết xuất bằng dung môi, cho cho ra Absolute Lavender. Những mùi hương có chứa Lavender: Jicky Guerlain (1899), English Lavender Yardley (1913), Pour un homme Caron (1934),... Tinh dầu Lavender trong Olfactozoom - Mysterious fragrance raw material - Box A.

Le Labo (trong tiếng Pháp có nghĩa là “phòng thí nghiệm”): được thành lập bởi Eddie Roschi và Fabrice Penot vào năm 2006 tại thành phố New York. Năm 2014, Le Labo được Tập đoàn Estée Lauder mua lại. Một số loại nước hoa đặc trưng nổi tiếng và mạnh mẽ như: Another 13, Santal 33, Rose 31, ... Bạn thích mùi hương nào của Le Labo ?

M

Mimosa /mɪˈməʊzə/: Trong một mùi hương, Mimosa đem lại sự dịu nhẹ, hương xanh và phấn. Hoa Mimosa khá “nhạy cảm” nên sau khi thu hoạch, chúng cần được đưa đi chiết xuất ngay lập tức. Mimosa được chiết xuất bằng phương pháp chiết dung môi cho Absolute. Absolute Mimosa, tùy theo công ty sản xuất mà nó có thể cho ra những mùi khác nhau. Một số nơi sẽ chiết xuất hoa, lá và cành nên mùi sẽ xanh hơn những nơi chỉ chiết xuất hoa. Một số mùi có hương Mimosa: Mimosa pour Moi (1992, L’Artisan Parfumeur), Mimosa & Cardamom (2015, Jo Malone), Infusion de Mimosa (2016, Prada), Une fleur de Cassie (2000, Frédéric Malle). Bạn có thích mùi Mimosa không?

Mint /mɪnt/: Có rất nhiều giống cây Bạc hà khác nhau, có 3 loài bạc hà quan trọng được đánh giá cao về mặt thương mại là Peppermint (M.piperita), Spearmint (M.spicata) và Wild mint (M.arvensis). Trong đó Peppermint và Spearmint là hai loại được dùng nhiều nhất trong nước hoa và hương liệu thực phẩm. Đó là lý do tại sao đôi khi nhiều người cảm thấy không thoải mái hay thậm chí là khó chịu khi sử dụng nước hoa có hương bạc hà vì nó khiến họ liên tưởng đến mùi của thuốc ho hoặc kem đánh răng.

N

Nez /ˌnez/: “Nez" trong tiếng Pháp hoặc “Nose” trong tiếng Anh, một từ lóng để chỉ perfumer - nhà điều chế hương. Tuy nhiên, một số perfumer không thích được gọi là "Nez/Nose" vì họ cho rằng việc chế tạo nước hoa không chỉ đòi hỏi một cái mũi tốt mà còn cần phải có óc sáng tạo và tư duy cực kỳ tốt. Việc này giống như bạn không gọi một họa sĩ là "Tay" hay một nhạc sĩ là "Tai" vậy!!!

Note /nəʊt/: Trong nước hoa, từ "Note" thường có 2 nghĩa sau:

  • Thứ nhất, "Note" trong nước hoa mô tả những “giai đoạn” của một mùi hương. Thông thường, nó được chia thành 3 giai đoạn: nốt đầu, nốt giữa và nốt cuối.Nốt hương đầu có độ bay hơi cao nhưng độ lưu hương thấp, còn nốt hương cuối thì độ bay hơi thấp nhưng độ lưu hương lại cao. Tuy nhiên, đây chỉ là khái niệm tương đối vì mùi hương rất phức tạp. Trong rất nhiều trường hợp, sự phân chia sẽ không rạch ròi và các tầng hương sẽ chồng chéo lên nhau.

  • Ý nghĩa thứ hai sẽ là đặc điểm của hương thơm, ví dụ, nốt hương hoa, nốt hương Chypre, nốt hương Fougere, nốt xanh.

O

Opium: Opium - một mùi hương được đặt tên theo thuốc phiện và chứa đựng rất nhiều điều thú vị.vNăm 1977, Yves Saint Laurent tung ra Opium cùng lúc với bộ sưu tập Thu-Đông lấy cảm hứng từ Trung Quốc. Đó là một mùi hương khác thường với sự pha trộn của hoắc hương, nhiều hoa và vanilla. Yves Saint Laurent đã giám sát toàn bộ quá trình sáng tạo, từ việc lựa chọn mùi hương đến hình dạng của chai cũng như chiết dịch quảng cáo. Thật ra mối liên kết với Phương Đông và mùi hương mang hơi hướng Oriental cũng không còn quá mới mẻ. Năm 1913, Paul Poiret đã ra mắt Nuit de Chine trong một chai màu ngọc bích gợi nhớ đến một hộp thuốc lá Trung Quốc. Tuy nhiên, cái tên Opium - Thuốc phiện mà Saint Laurent lựa chọn lại là một cái tên cực kì nhạy cảm với đất nước Mỹ lúc bấy giờ. Vậy mà Opium lại là một thành công đáng kinh ngạc. Chỉ trong một năm, tức 1978, doanh số bán hàng ở Châu âu đã đạt 30.000.000 USD. Ba mươi năm sau, Opium vẫn là một trong những chai nước hoa bán chạy nhất ở Pháp. Cùng với Chanel No5, Opium là hương thơm duy nhất đạt được điều này.vTrong một buổi phỏng vấn, Yves Saint Laurent đã chia sẻ: "Sau hương thơm Y, tôi muốn một mùi hương hoa ngập tràn, nặng nề và làm người khác có thể “say”. Tôi muốn Opium trở nên quyến rũ và tôi muốn mùi hương của nó gợi lên mọi thứ tôi thích: một Phương Đông nhiều góc cạnh, Đế quốc Trung Hoa và độc đáo”. Mùi hương Opium bao trùm cả quá khứ, thể hiện một điều gì đó mới mẻ, kích thích một làn sóng ăn theo và mở đầu cho cả một thời kì hương Oriental trong ngành hương. Và cho tới tận bây giờ - năm 2022, dường như nó vẫn rất hợp thời và có một vị thế rất đáng nể. Nhắc đến YSL, người ta sẽ nhắc đến Le Smoking và Opium. Một bức tranh màu sắc với những cánh hoa nhài, hoa hồng, hoa hoàng lan, hoa linh lan được phủ trong vanilla, amber, patchouli, vetiver. Một mùi hương của thời gian, của tinh hoa, của thời đại.

Oud:  Oud có rất nhiều tên gọi như Aoud hoặc Agarwood, tiếng Việt là trầm hương.Trầm hương không chỉ rất quý hiếm mà mùi hương gỗ nồng nàn, sâu lắng và đượm khói của nó cũng là một kho báu của các nhà điều chế nước hoa.Trầm hương thực chất là một loại nhựa thơm được tạo ra bởi cây thuộc loài aquilaria, mọc trong các khu rừng nhiệt đới của Châu Á. Trầm hương được tiết ra từ cây khi nó bị tấn công bởi một loại nấm. Hay nói cách khác, mùi hương nhựa thơm quý hiếm này có được là do cây gỗ bị bệnh. Hiện nay trầm hương đã bắt đầu được trồng công nghiệp bằng cách cấy trực tiếp nấm vào thân cây. Mùi trầm hương đã trở thành xu hướng trong những năm gần đây và hầu hết các nhà mốt đều có một mùi trầm hương cho riêng mình: M7 của Yves Saint Laurent , Velvet Rose & Oud của Jo Malone, Oud Wood của Tom Ford,…Đặc biệt Olfactozoom muốn giới thiệu tới bạn nhà Montale có hơn 60 mùi hương Oud khác nhau và nổi tiếng nhất là chai Black Aoud ra đời 2006 bởi nhà pha chế Pierre Montale. 

R

Rive Gauche: Yves Saint Laurent đã gọi Rive Gauche là Le parfum des femmes imprévisibles - Mùi hương nước hoa của một người phụ nữ khó đoán. Rive Gauche được ra mắt vào năm 1971 dưới sự sáng tạo của Michel Hy. Đây cũng là một mùi hương mà Luca Turin đánh giá là hương floral aldehyde đặc sắc nhất mọi thời đại. Giống như vỏ chai kim loại có sự tương phản giữa bạc và xanh navy, mùi hương của Rive Gauche thể hiện sự sang trọng cổ điển, trang trọng từ những nốt hoa rất aldehydic gần như đóng băng. Rive Gauche có một âm hưởng rất Pháp, và sillage của mùi hương này có màu đỏ tươi hoặc màu hồng thẫm của đoá hoa hồng rạng rỡ. Cũng như những mùi hương classic khác, hiện tại mùi của chai Rive Gauche này ít nhiều cũng đã bị reformulated.

Rose: Ngoài hai loại May Rose và Damask Rose dùng trong sản xuất nước hoa, thực tế hoa hồng còn được ứng dụng rất nhiều trong ẩm thực. Cánh hoa hồng... có thể ăn được và nước hoa hồng (rose water) thường hay được thêm vào mứt hoặc tăng hương vị cho các món ăn Ấn Độ và Trung Quốc. Hoa hồng còn có quả gọi là Rose Hip. Quả có thể có màu cam, đỏ, tím hoặc đen, nó có chứa rất nhiều vitamin C. Rose hip hay được dùng trong cocktail hoặc sấy khô để ngâm trà. Absolute May Rose có trong Fragrance Sketching Box No.1: Box Rose.

S

Safran: Safran / Saffron là nhụy của cây Crocus Sativus hoặc Saffron crocus. Vào mùa thu, những bông hoa bắt đầu nở rộ với nhiều màu sắc phong phú, từ màu phấn, màu hoa cà đến màu tím đậm. Hoa có mùi thơm ngào ngạt như mật ong. Việc thu hoạch Saffron phải thực hiện bằng tay và đòi hỏi rất nhiều công sức. Saffron là một trong những nguyên liệu đắt tiền nhất trên thế giới, có thể lên tới 450 triệu VNĐ cho 1kg. Việc thu hoạch bắt buộc phải chuẩn xác và nhanh chóng: hoa sau khi nở phải được hái ngay trước khi mặt trời mọc và hoa sẽ héo nhanh khi ngày trôi qua. Mùa hoa nở chỉ diễn ra trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 tuần. Tầm 150 bông hoa mới thu được 1g nhuỵ saffron khô. Để có 1 kg nghệ tây khô, cần 150.000 bông hoa, tương đương với khoảng 2000m2 trồng cây nghệ tây. Trong mùi hương, Saffron đem lại một làn hương mạnh, có mùi da thuộc, mềm mại, chút mùi đất, giống cỏ khô. Saffron là một note hương thường được sử dụng trong các hợp hương da thuộc và Oriental. Bạn có thể ngửi Saffron trong các chai By Kilian - Pure Oud, L'Artisan Parfumeur - Dzing!, …

Shalimar: Shalimar không chỉ là một mùi hương, Shalimar là một tượng đài trong thế giới nước hoa. Shalimar dịch là “temple of love” trong tiếng Sanskrit, tượng trưng cho lời hứa về một tình yêu vĩnh hằng. Shalimar đem tới một làn hương từ quá khứ mang âm hưởng Phương Đông, rất gợi cảm, rất mãnh liệt nhưng cũng rất vuốt ve làn da với một chút gì đó của sự cấm đoán. Năm 1925, Jacques Guerlain - người tạo ra Mitsouko, đã cho ra đời Shalimar, một mùi hương lay chuyển cả thời đại, nhắc nhở về một thập kỷ sôi nổi của những bữa tiệc đêm, những khoảng thời gian vui vẻ nhưng cũng đầy biến động. Có rất nhiều huyền thoại xung quanh việc tạo ra Shalimar. Một số người nói rằng mùi hương này là một sự tình cờ mà Jacques Guerlain đã thêm một ít ethyl vanillin vào chai Jicky trong một khoảnh khắc hứng khởi. Cũng có người cho rằng Shalimar là món quà cá nhân của Jacques dành cho người vợ, hay một câu chuyện mang tính đại chúng hơn là mùi hương này được lấy cảm hứng từ khu vườn Shalimar, món quà của Hoàng đế Shah Jahan dành cho cô công chúa Mumtaz Mahal của giới quý tộc Ba Tư vào khoảng đầu thế kỷ 17 tại Ấn Độ. Không ai biết được sự thật đằng sau đó nhưng Guerlain đã tạo ra một kiệt tác vượt không gian và thời gian, không bao giờ lỗi thời.

T

Tobacco: Cây thuốc lá được đưa đến Châu Âu từ vùng Châu Mỹ nhiệt đới. Người ta tin rằng những người châu Âu đầu tiên biết về thuốc lá là những người thám hiểm của Columbus, những người này đã mang thuốc lá đầu tiên trở lại châu Âu cùng với họ. Trong lá thuốc lá khô có chứa khoảng 1–5% nicotin nhưng trong nước hoa, nguyên liệu thơm tự nhiên chiết xuất từ thuốc lá lại hoàn toàn không chứa nicotin hoặc thậm chí là ancaloit. Tobacco Absolute thu được sau quá trình chiết xuất bằng dung môi dễ bay hơi. Lá khô được chiết xuất bằng Ete dầu mỏ hoặc Hexan để thu được Concrete, và sau đó là thành phẩm Tobacco Absolute sau khi chiết xuất bằng cồn Ethanol. Tuy nhiên Absolute Tobacco không hề rẻ thế nên trong nước hoa người ta hay tái tạo mùi thuốc bằng Vanille, Tonka Bean, gỗ, hương powdery...Hương thuốc lá kết hợp tốt với Labdanum, gỗ Đàn hương, Vetiver, Castoreum, Xô thơm, Tuyết tùng. Một số loại nước hoa có notes thuốc lá như Amouage Tribute, By Kilian Back to Black, Chanel Les Exclusifs Sycomore, Tom Ford Tobacco Vanille, …

Tuberose: Với tên gọi khác là 'Hoa xác thịt', mùi hương của Hoa Huệ vô cùng mạnh mẽ, bạn cứ tưởng tượng chỉ cần một vài bông hoa là có thể tỏa hương thơm ngát cả căn phòng trong nhiều ngày. Khi nhắc đến Hoa Huệ, người ta nghĩ ngay đến những hương hoa ngọt ngào, kỳ lạ và đầy gợi cảm. Để có được ½ kg Absolute Hoa Huệ, phải cần 3600kg hoa, thế nên Absolute Hoa Huệ là một trong những nguyên liệu cực kỳ đắt tiền, và hầu như chỉ được sử dụng trong những mùi hương đắt tiền như Carnal Flower Frédéric Malle. Vậy người ta làm thế nào để có mùi Hoa Huệ trong những mùi hương rẻ tiền hơn chút hay những sản phẩm gia dụng hằng ngày, như sữa tắm, nước lau nhà hay khăn giấy thơm? Trong mùi hương cho những sản phẩm trên, người ta tái tạo Hoa Huệ bằng những nguyên liệu nhân tạo hoặc/kết hợp những nguyên liệu thiên nhiên rẻ tiền hơn. Nói vậy, không có nghĩa là Hoa Huệ trong những sản phẩm đó không thú vị nhé, chúng vẫn đầy đủ những khía cạnh mùi hương phức tạp cùng khả năng bám tỏa mạnh mẽ. Bạn có thể ngửi hoa Huệ trong các chai Goutal Tubéreuse, By Kilian Beyond Love, Calvin Klein Beauty, By Kilian Moonlight in Heaven

V

Vanilla: Vanilla có nguồn gốc từ Mexico và sau đó được du nhập vào Madagascar ở thế kỷ VXII với tên gọi “Bourbon vanilla". Hiện nay ở Việt Nam cũng có người trồng vanilla nhưng số lượng rất hạn chế. Vanilla - được coi là một loại gia vị, là quả của một loài phong lan từ Amazon có tên Vanilla Planifolia. Trồng Vanilla không dễ và đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn. Vanilla ra hoa đợt đầu tiên sau 3,4 năm trồng và sau đó mất thêm 9 tháng nữa để ra trái. Hoa của vanilla là loài hoa lưỡng tính - tức là có hoa đực và hoa cái trên cùng một bông. Người ta phải thụ tinh nhân tạo bằng tay cho từng hoa. Vanilla lúc mới thu hoạch sẽ có màu xanh, sau đó được xử lý qua nước ấm rồi ủ thêm 3 ngày. Sau đó lại cần được phơi khô 10- 20 ngày mới cho ra thành phẩm là trái vanilla đen nhánh. Các trái Vanilla đạt tiêu chuẩn sẽ được đem đi chưng cất với cồn, tạo ra tinh chất Vanilla Absolute. (Nghe đơn giản vậy thôi chứ công đoạn xử lý trái Vanilla rất phức tạp và đòi hỏi nhiều kỹ thuật để trái có thể “chín” đẹp về mùi). Vanilla có mùi thơm ngọt, đặc quánh, đôi chút hương gia vị, thuốc lá và đậu tonka. Thời gian hao tốn để thu hoạch và sự cầu kỳ trong khâu chuẩn bị khiến vanilla trở thành một trong những nguyên liệu thô tự nhiên đắt tiền nhất trên thế giới. Vì vậy, người ta đã nghiên cứu và tổng hợp Ethyl Vanillin, một phân tử mùi hương có mùi ngọt tông Vanilla và được dùng rộng rãi để tạo độ ngọt cho một mùi hương. Bạn có thể ngửi thử Ethyl Vanillin trong box A - Raw Materials của Olfactozoom nhé!

Vent Vert: Vent Vert thật sự là một tượng đài và một huyền thoại khi nhắc đến nước hoa có mùi “xanh”. Ngay cả khi đã ra mắt được hơn 60 năm và có rất nhiều mùi hương xanh mới được ra mắt, mùi hương này vẫn toát lên sự mới mẻ và xanh mướt mát. Khác biệt với mọi loại nước hoa đương thời, Vent Vert là đại diện cho phong trào nổi loạn trong thời trang lẫn thiết kế sau chiến tranh thế giới thứ 2. Hẳn các bạn không thể quên được bộ sưu tập New Look của Dior năm 1947 đã thay đổi bộ mặt của phụ nữ sau thời kì chiến tranh tăm tối. Vent Vert cũng đã truyền một làn hương “xanh” nữ tính mới với một cách diễn giải mùi hương vô cùng thú vị của Germaine Cellier và Pierre Balmain. Vent Vert The Original gợi lên cảm giác về một không gian ngoài trời thoáng đãng với hợp hương của cam quýt (citrus), galbanum, các loài hoa cùng với chút khô và hương đất từ gỗ và rễ cây. Mùi hương galbanum chủ đại cùng với ylang ylang, hoa hồng, hoa nhài, một chút hoa linh lan cùng một chút cay nồng gia vị. Balmain đã chia sẻ: “Vent Vert thật sự là một thần thoại, biểu đạt sự sang trọng vượt thời gian và xu hướng. Lần đầu tiên Galbanum được sử dụng quá liều trong lịch sử, nhưng lại rất quý phái với mùi hương xanh, tươi và cay đặc trưng. Tất cả kết hợp với các nốt hoa ở tầng giữa dường như làm tăng độ sắc sảo và chiều sâu cho làn gió xanh này. Mùi hương cuối trên da lại rất mềm mượt hương gỗ, để lộ một lối mòn đầy chân thực và thuần khiết.”

W

Womanity: Womanity là mùi hương dành cho nữ thứ 3 được sáng tạo bởi Thierry Mugler và được ra mắt vào năm 2010. Womanity được đựng trong chai màu hồng với thông điệp truyền tải năng lượng, sự dịu dàng và tinh tế cùng một lúc, tôn vinh sự nữ tính trên toàn thế giới. Womanity là một sự tương phản giữa mùi thịt quả sung ngọt và “mùi trứng cá muối mặn” caviar - một trường phái gourmand mới. Mùi quả sung mạnh mẽ nhưng cũng mềm và mịn như nhung trên lớp nền “trứng cá” tạo cảm giác biển mặn. Nghe thì có vẻ lạ kì nhưng hương thơm rất thú vị và đặc biệt.

Whiskey: Whisky có một hương thơm đặc biệt mà hầu hết những người mới ngửi không thể xác định và mô tả được. Thường thì một người thậm chí còn sợ hãi hay khó chịu khi hít phải mùi ly rượu whisky trước khi uống. Whisky có rất nhiều mùi hương tuỳ thuộc vào nguồn góc nhưng thường thì người ta có thể mô tả hương thơm của rượu whisky là mùi hạt, vị cồn của rượu, hơi mùi bùn, mùi cỏ, hương gỗ và hương trái cây. Những mùi hương có nốt rượu tạo ra cảm giác đậm, hơi men say, ấm và gợi cảm.

Whisky có thể rất ve vãn như trong Jazz Club của Maison Margiela Replica hoặc nồng nàn như trong By Kilian Single Malt hay Thierry Mugler Pure Malt

X

X-MEN: Vào những năm 2003, thị trường dầu gội vẫn chỉ bị hai ông lớn là Unilever và P&G thống lĩnh với hàng loạt các thương hiệu như Sunsilk, Clear, Lifebuoy hay Head & Shoulders. X-Men lúc đó là sản phẩm lần đầu được giới thiệu tới công chúng, đến từ Công ty Sản xuất hàng gia dụng quốc tế (ICP) của người Việt do ông Phan Quốc Công và một người bạn thành lập. X-Men mang một cái tên khá Tây với X được suy từ “Next generation” và X-Men là thế hệ nam giới mới, lịch lãm và sành điệu. Cùng thời điểm đó, bộ phim nổi đình đám X-Men II cũng vừa được ra mắt tại Hollywood là một bàn đạp marketing lý tưởng cho nhãn hàng. Slogan “Đàn ông đích thực” đã nhanh ghi dấu ấn trong lòng người tiêu dùng với những mùi hương mạnh mẽ, nam tính chứ không còn phải dùng chung những mùi hương “gia đình” như Lifebuoy hay mùi mang nhiều cảm giác tẩy rửa như Head & Shoulders. Vậy lý do chính khiến X-men đứng đầu thị trường dầu gội Việt Nam là gì? Ông Phan Quốc Công cho biết: “Khí hậu nóng ẩm đã hậu thuẫn mùi hương X-men". “Ở Việt Nam, do khí hậu nóng ẩm, dùng nước hoa không tiện, chưa kể nước hoa vẫn được xếp vào nhóm hàng xa xỉ so với đại bộ phận người dân. Tôi nghĩ nếu tạo ra một sản phẩm dầu gội dành cho nam, kết hợp giữa nước hoa và dầu gội sẽ dễ được người tiêu dùng chấp nhận hơn, nhất là thị trường khi đó còn khá trống trải. Giới trẻ vẫn thích dòng sản phẩm X-men vì mùi giống CK Eternity For Men". Tuy nhiên, thương hiệu Việt Xmen nay đã... hết Việt. Tháng 3/2011, tập đoàn mỹ phẩm Marico của Ấn Độ đã mua lại 85% cổ phần của ICP nhưng vẫn giữ lại toàn bộ nhân sự điều hành. Công ty ICP hiện nay có tên là Marico SEA. Hiệu quả của công ty hiện vẫn rất đáng nể, biên lợi nhuận gộp duy trì gần 60%, lợi nhuận trước thuế mỗi năm thường xuyên trong khoảng 100 – 200 tỷ đồng.

Xerjoff: Thương hiệu nước hoa Nice: Xerjoff hay sự nhẹ nhàng của nước Ý được bao bọc trong sự sang trọng, lộng lẫy. Xerjoff là thương hiệu nước hoa được thành lập tại Turin, Ý bởi Sergio Momo vào năm 2003. Xa hoa, sang trọng, độc đáo - thương hiệu cao cấp này tạo ra những mùi hương unisex với giá trị nhận diện rất cao. Nhà sáng lập Sergio Momo luôn trung thành với lý tưởng của mình: sự kết nối chặt chẽ giữa nước hoa, nghệ thuật và thiên nhiên. Cho tới nay, Fragrantica đã thống kê được hơn 130 mùi hương từ nhà Xerjoff và không thể không kể đến những Bộ sưu tập kinh điển như: Vintage – Casamorati 1888 , Shooting Stars hay Oud Stars. Giá cả dao động từ $200 cho đến ... $790 cho một chai nước hoa.

Y

Yves Saint Laurent: Nhắc đến Yves Saint Laurent, bạn sẽ nghĩ đến gì đầu tiên? Mùi hương Opium hay bộ suit Le Smoking nổi tiếng? Hay đơn giản là chuyện tình rất lãng mạn của Yves Saint Laurent và Pierre Bergé? Yves Saint Laurent sinh năm 1936, xuất thân từ một gia đình khá giả thuộc dòng dõi quý tộc và thời còn nhỏ, Yves Saint Laurent đã có năng khiếu hội họa và thẩm mỹ tuy nhiên không được gia đình ủng hộ. Sau khi lén gia đình đi thi một cuộc thi thiết kế năm 1953 và đạt giải nhất, ông đã được bố đồng ý cho ghi tên vào trường thiết kế của ngành kỹ nghệ may mặc. Năm 21 tuổi, ông được bổ trợ làm giám đốc nghệ thuật cho nhà mốt Christian Dior. Tiền tài, danh vọng, trách nhiệm của một cơ đồ đều đổ lên vai một chàng trai 21 tuổi. Theo lời kể của Pierre Bergé - người tình của ông, thì Yves Saint Laurent tự nhốt mình vào phòng làm việc, cho mỗi bộ sưu tập thời trang ông vẽ đến 800 bức phác họa khác nhau. Trong ba năm liền, ông là người duy nhất thực hiện 6 bộ sưu tập thời trang Dior, ba bộ xuân hạ, ba bộ thu đông. Sự nghiệp của Yves Saint Laurent bắt đầu cất cánh thì chiến tranh Algérie bùng nổ. Yves Saint Laurent buộc phải rời công ty Dior để thi hành nghĩa vụ quân sự. Do sức khỏe yếu kém lẫn vấn đề về tâm lý, nên ông được miễn quân dịch chỉ sau một thời gian ngắn nhưng ông lại bị công ty Dior sa thải. Nhà triệu phú Marcel Boussac chê Yves Saint Laurent là một kẻ nhu nhược hèn nhát và viện cớ ông đang nhập viện để tuyển dụng một người khác. Chán nản tuyệt vọng, Yves Saint Laurent đã từng có lúc sa đoạ và muốn từ bỏ. Nhưng Pierre Bergé không cho phép Yves Saint Laurent để tài năng của mình ngủ yên, Pierre đã thuyết phục ông điều ngược lại: thành lập một thương hiệu Haute couture riêng - YSL viết tắt của Yves Saint Laurent. Khi được trình làng vào tháng Giêng năm 1962, Yves Saint Laurent lập tức trở thành một hiện tượng. Với sự hỗ trợ của nhà tỷ phú người Mỹ J.Mack Robinson, chỉ mười năm sau khi tung ra thị trường, Yves Saint Laurent đã đuổi kịp thương hiệu Dior cả mọi mặt: doanh thu, uy tín và phong cách.

Ylang Ylang: Ngày xưa hoa Hoàng Lan còn được biết tới cái tên “hoa nhài của người nghèo” (“poor man jasmine”) vì nó có nhiều đặc điểm mùi hương tương tự với Nhài nhưng chiết xuất lại rẻ hơn rất nhiều. Thực tế, dù hoa Hoàng Lan có màu vàng nhưng mùi hương của nó lại được xếp vào nhóm hoa trắng do nó có cùng chung phân tử indole - mang lại nốt hương động vật cho các nốt hoa trắng. Tinh dầu Ylang Ylang có hương thơm rất đẹp với các sắc thái hoa vừa ngọt ngào vừa nhẹ nhàng. Bạn có thể ngửi thấy các sắc thái của hoa nhài, chuối, hoa cam. Nốt hương này được sử dụng rất nhiều trong nước hoa hiện đại lẫn cổ điển, có thể kể đến tượng đài Chanel No5 và Joy. Bạn có thể ngửi một số hương classic khác cũng có note Ylang Ylang là Acqua di Parma Mandorlo di Sicilia Eau de Toilette (unisex) và Dior J’adore Eau de Parfum. Trong liệu pháp hương thơm (Aromatherapy), hoa Hoàng Lan được cho là có đặc tính giảm căng thẳng, chống lo âu và cải thiện tâm trạng. Các bạn có thể ngửi tinh dầu hoa Ylang Ylang trong Box B - Olfactozoom nữa nhé!

Z

Z14 Halston: Halston Z-14 (1976) là một trong hai chai “Halston Twins” đã làm dậy sóng thế giới nước hoa nam khắp đất nước Mỹ và một số nước phương Tây khác. Nước hoa anh em của nó - Halston 1-12 (1976) ban đầu được phân biệt với nhau bằng các điểm nhấn màu tím trên nắp và hộp, nhưng sau cùng người ta đã quyết định tinh chỉnh lại màu nước trong chai cũng cần phối màu giống nhau. Tuy nhiên Halston Z-14 lại trở thành biểu tượng và phổ biến hơn cả, khi chỉ đến nước hoa Halston, người ta sẽ mặc định là bạn đang nhắc đến chai Z-14. Z-14 mang trong mình toàn bộ tính cách của Halston, rất mỹ, rất náo nhiệt và mạnh mẽ, cũng như ồn ào và hoang dã, đôi chút dục vọng. Halston Z-14 được tạo ra bởi bộ đôi Max Gavarry và Vincent Marcello xoay quanh mùi hương woody chypre. Hương thơm Z-14 gần như đại diện cho những năm 70 với nốt hương gỗ và da thuộc, gia vị kèm amber, vị ngọt dịu của xạ hương và nồng ấm của hoắc hương. Mùi hương có đôi chút ẩm thấp của các câu lạc bộ đêm và gợi sự lịch lãm của những quý ông thành đạt.

Zen Shiseido: Khi một cái tên được đặt cho quá nhiều chai nước hoa qua nhiều thập kỷ để biểu thị các mùi hương khác nhau, mọi thứ trở nên như mớ bòng bong. Ví dụ như Dior Sauvage, bạn không thể biết chính xác phiên bản được nhắc tới là năm nào hay nồng độ nào. Zen của Shiseido cũng là một trường hợp như vậy. Shiseido có tới 3 mùi hương tên Zen và có bao bì lẫn mùi hương khá khác nhau. Mùi hương Zen nguyên bản là mùi Zen Eau de Parfum năm 1964 được đựng trong chai màu đen với những bông hoa vàng được vẽ tay. Đó là một mùi hương xanh có linh hồn với vị đắng và sắc nét của lớp lớp hoa trắng kèm theo chút khói và lớp nền da thuộc, rêu sồi. Mùi hương Zen thứ hai được đựng trong một lọ màu trắng xinh xắn với các đường nét bo tròn có mùi hương hoa và trái cây đáng yêu, đặc biệt nhất là mùi hương “hoa hồng không gian” mà Olfactozoom đã có lần chia sẻ. Đây là một phiên bản mềm mại và dễ chịu hơn bản gốc và thể hiện được gu thẩm mỹ rất cao của Shiseido. Và phiên bản Zen cuối cùng được đựng trong chai hình khối vuông cực kì lạ mắt được giới thiệu vào năm 2007. Phiên bản này mở đầu bàn một làn hương hoa- trái cây và thay vì xanh và đắng đặc trưng của những phiên bản trước, mùi hương chuyển sang hương cay và nồng nàn hơn đến từ Ambroxan và Patchouli. Ngoài 3 phiên bản chính thức trên, Shiseido cũng ra mắt 2 bản flanker khác là Zen White và Zen for men.


*Vui lòng đọc kỹ yêu cầu về Copyright - Bản quyền trước khi sao chép hoặc trích dẫn nội dung và hình ảnh của blog Olfactozoom.

 

Bài viết cũ hơn